g8ar39zgw7f51

Phương cách thực sự để rút ra được tinh túy

Có ba phương cách thực sự để rút ra được tinh túy. Đó là những tu tập thông thường của con đường của người hạ căn, những tu tập thông thường của con đường của người trung căn, những tu tập thông thường của con đường của người thượng căn.

1) Những Tu tập Thông thường của Con Đường của Người Hạ Căn

Hãy suy niệm những điều này với sự nhất tâm. Tôi đã thực sự đạt được đời người quý báu và khó có được, và một khi tìm thấy thì vô cùng có ý nghĩa. Tuy nhiên, đời người ấy không kéo dài. Chắc chắn là tôi phải chết, nhưng tôi không biết chắc khi nào tôi sẽ chết. Vì thế, giờ đây tôi phải dâng hiến đời mình để rút ra được tinh túy (của đời người). Cho tới bây giờ, mọi loại người – siêu việt/mạnh mẽ, trung bình và yếu đuối hay giàu có, trung bình, và nghèo khổ – đều bị Thần Chết nhanh chóng đánh bại giống như những người trong phố chợ. Thật may mắn biết bao tôi vẫn còn sống! Hãy phát triển một tâm thức tràn đầy sự tỉnh giác về cái chết ở đó bạn không thể chịu đựng nổi ngay cả việc ở (ngồi) yên một chỗ. Hãy nghĩ tưởng rằng khi bạn chết, bạn phải đi một mình mà không có những người thân thuộc hay bằng hữu đi cùng và không có quyền lực của tài sản hay của cải của bạn, thay vào đó, bạn phải mang theo mọi hành vi xấu xa (ác hạnh) mà bạn đã tích tập để có được những của cải, tài sản đó. Mọi vui thú của việc ăn uống, con người, của cải và thực phẩm của đời này hoàn toàn biến mất (quá xa). Giờ đây, hãy nghĩ rằng bạn nên thực hành một Pháp chân chính cho phần còn lại của đời bạn và hiện bạn có ý định làm điều đó.

Nếu bạn tự hỏi: Ngoại trừ Pháp ra, làm thế nào chẳng điều gì có thể giúp đỡ tôi vào lúc chết, Pháp cứu giúp tôi và phi-Pháp làm hại tôi ra sao? Tôi sẽ không còn hiện hữu sau khi chết. Tôi phải nhận một tái sinh. Khả năng bị tái sinh có hai loại: những cõi cao và những cõi thấp. Điều đó cũng được quyết định bởi những hành động/nghiệp của tôi và tôi không có tự do. Bởi lực đẩy của những hành động/nghiệp trắng và đen (tốt và xấu) của tôi, tôi phải nhận một tái sinh. Hơn nữa, nếu những tư tưởng tốt lành ngẫu nhiên thể hiện vào lúc chết thì tôi sẽ được sinh trong cõi cao. Vào lúc chết, nếu những tư tưởng ác hại thể hiện thì tôi phải sinh vào một trong ba cõi thấp và phải đau khổ dữ dội.

Nếu bạn tự hỏi: Những đau khổ hành hạ của các cõi thấp là gì? Đức Nagarjuna nói:

Hãy nhớ tới sự dữ dội của một ngày

Nóng và lạnh trong cõi địa ngục,

Hãy nhớ tới những ngạ quỷ

Gầy mòn vì đói và khát,

Hãy nhìn và nhớ tới những súc sinh

Tràn ngập nỗi khổ của sự ngu si,

Hãy từ bỏ mọi nguyên nhân của những cõi thấp này và vun trồng nguyên nhân của những cõi cao,

Thật khó có được đời người trong Cõi Jambu (Diêm phù đề, trái Đất),

Khi đã có được, hãy cẩn thận ngăn ngừa

Những nguyên nhân của các cõi thấp và hãy chiến thắng chúng.

Như có nói, chúng sinh trong cõi địa ngục có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì cái nóng và lạnh, ngạ quỷ có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì đói và khát, súc sinh có những đau khổ không thể chịu đựng nổi vì việc ăn thịt lẫn nhau, vì sự ngu si và vì bị câm và v.v.. Vào lúc này, tôi không thể chịu đựng nổi việc nắm bàn tay bạn trong ngọn lửa nóng cho dù trong chốc lát. Tôi không thể chịu đựng nổi việc trần trụi trong băng giá giữa mùa đông dù chỉ một ngày. Tôi không thể chịu đựng nổi việc nhịn đói trong vài ngày. Tôi không thể chịu đựng nổi ngay cả một ngòi ong chích. Như thế, làm sao tôi có thể chịu đựng nổi nỗi khổ của nóng và lạnh trong cõi địa ngục, nỗi khổ của đói và khát của cõi ngạ quỷ và những nỗi khổ của việc nuốt sống lẫn nhau và v.v.. của cõi súc sinh?Bằng kinh nghiệm hiện có của riêng bạn, hãy thiền định về những nỗi khổ của các cõi thấp cho tới khi tâm bạn được chuyển hóa bởi nỗi sợ và sự khiếp hãi những đau khổ của các cõi này. Sau đó, hãy thiền định: Giờ đây tôi đã có được thân người cao quý này (được ban tặng những sự nhàn nhã), tôi phải dành mọi nỗ lực nhằm trau dồi những phương pháp để không bị sinh trong những cõi thấp bằng cách từ bỏ những nguyên nhân của các cõi thấp và vun bồi những nguyên nhân của các cõi cao.

Để không bị sinh trong các cõi thấp, ta nên hiến mình cho các phương pháp ra sao? Như đã giải thích ở trên, ta nên sợ hãi những nỗi khổ trong các cõi thấp, và năng lực để bảo vệ bạn khỏi những sợ hãi này nằm trong tay Tam Bảo. Hiểu rõ điều này, hãy quy y (nương tựa) Tam Bảo tận đáy lòng bạn. Tam Bảo có năng lực che chở bạn thoát khỏi những nỗi sợ các cõi thấp.

Bản thân Phật Bảo thoát khỏi mọi nỗi sợ, thiện xảo trong những phương pháp giải thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi sợ, thực hiện lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh không chút phân biệt, và làm việc cho họ dù họ có lợi cho Ngài hay không. Vì thế, Ngài xứng đáng là một đối tượng quy y. Ta cũng có thể áp dụng những tính chất này cho Pháp Bảo và Tăng Bảo. Vì lý do này, vị Thầy, Pháp và Tăng của những trường phái phi-Phật Giáo không có một phẩm tính riêng biệt như thế. Vì thế ba đối tượng này không xứng đáng là những đối tượng quy y. Trái lại, Tam Bảo có những phẩm tính như thế và vì thế Tam Bảo xứng đáng là những đối tượng quy y.

Ta nên quy y ra sao? Hãy quy y Tam Bảo từ tận sâu thẳm trái tim bạn với niềm tin và sự tin cậy trọn vẹn bằng cách hát tụng:

Con quy y Phật, đấng siêu việt trong tất cả con người,

Con cầu xin Ngài – vị Thầy của con – cứu con thoát khỏi những nỗi khổ của samsara (sinh tử) và những cõi thấp,

Con quy y Pháp, đấng siêu việt trong tất cả thoát khỏi mọi dục vọng,

Con cầu xin ngài – đối tượng quy y thực sự của con – cứu con thoát khỏi những đau khổ của sinh tử và những cõi thấp,

Con quy y Tăng, đấng siêu việt trong mọi tập hội,

Con cầu xin Ngài – thiện tri thức của con – cứu con thoát khỏi những đau khổ của sinh tử và những cõi thấp.

Sau khi quy y Tam Bảo, nếu bạn không tu tập những giới luật quy y, năng lực của sự quy y sẽ bị suy hoại. Vì thế, hãy tu tập những giới luật quy y. Một khi bạn đã quy y Tam Bảo, bạn không nên coi những vị trời hung dữ thế tục như Vishnu và v.v.. như những đối tượng quy y, và nên coi mọi hình tượng của Đức Phật là Đức Phật thực sự và tôn kính những hình tượng này. Một khi đã quy y Pháp Bảo, bạn không nên làm tổn hại chúng sinh, và nên từ bỏ thái độ bất kính ngay cả đối với một chữ (của Kinh điển), và luôn tỏ ra tôn kính. Một khi bạn đã quy y Tăng Bảo, bạn không nên thân mật với các tirthika (người ngoại đạo) và bạn bè vô đạo đức, và thậm chí hãy từ bỏ sự bất kính đối với những vị mặc y phục màu nghệ (tu sĩ Phật Giáo) và tỏ lòng tôn kính họ.Hơn nữa, biết rằng mọi hạnh phúc và thịnh vượng, đức hạnh và điều tốt lành là kết quả của thiện tâm của Tam Bảo, hãy cúng dường miếng đầu tiên của thức ăn hay nước uống và v.v.. cho Tam Bảo. Và hãy cầu xin Tam Bảo cho bạn có được những lợi lạc nhất thời và tối hậu và không tin tưởng những người xem bói mo, những thầy tư tế đạo Bon và v.v.. Với mọi khả năng của bạn, hãy hướng dẫn những người khác quy y Tam Bảo. Hãy suy nghĩ ba lần ban ngày và ba lần ban đêm rằng bạn sẽ không từ bỏ Tam Bảo ngay cả khi đời bạn bị đe dọa và thậm chí không để cho lưỡi bạn phát ra một lời từ bỏ Tam Bảo. Và hãy quy y Tam Bảo tận đáy lòng bạn, ba lần vào ban ngày và ba lần vào ban đêm, bằng sự thấu suốt những phẩm tính và sự khác biệt của Tam Bảo, những cam kết của bạn và không chấp nhận những đối tượng quy y khác (không nói về những đối tượng quy y khác).

Nếu bạn tự hỏi: Mặc dù nhờ quy y Tam Bảo, ta được bảo vệ không bị những đau khổ của các cõi thấp nhưng ở mặt khác, làm thế nào ta có thể vun trồng những nguyên nhân để được sinh vào những cõi cao? Để làm điều này, ta phải suy niệm về nguyên nhân và kết quả trắng và đen; mỗi hành vi đức hạnh và vô đạo đức thì rạch ròi từng cái một (hay không thể sai lầm), tăng lên gấp bội, hành động không được thực hiện thì không mang lại kết quả, hành động đã làm sẽ không bị tiêu mất. Nhờ suy niệm về tính chất của nhân và quả, hãy vun trồng đúng đắn những gì nên theo và những gì nên bỏ. Bởi chúng ta không thể chứng minh luật nghiệp quả chỉ bằng lý lẽ của sức mạnh của sự thật, nhưng như Kinh Định Vương nói:

Mặt trăng và những vì sao có thể rơi rụng,

Những ngọn núi và thung lũng có thể sụp đổ,

Và không gian có thể biến dạng,

Tuy nhiên, con đừng bao giờ nói những lời không thật.

 

Như đã nói, bạn có thể phát triển sự xác tín trọn vẹn nơi các giáo lý của Đức Phật từ đáy lòng bạn. Sau đó, hãy quán chiếu về những lời kệ sau:

 

Từ những ác hạnh dẫn tới đau khổ,

Vì thế, cả ngày lẫn đêm,

Chỉ suy niệm về “Làm cách nào giải thoát bản thân tôi khỏi những đau khổ này”,

Là điều thật đáng làm.

 

Và,

Niềm tin là cội gốc của mọi loại đức hạnh,

Như Đức Phật đã nói,

Cội gốc của đức hạnh nằm ở

Việc thiền định liên tục về sự thuần thục (quả chín mùi).

Nói chung, như đã nói, chúng ta nên từ bỏ mọi ác hạnh và đặc biệt là nên suy niệm (về ba loại nghiệp quả:) sự thuần thục của việc dấn mình vào mười ác hạnh – nặng nề, trung bình, và nhỏ – dẫn tới việc sinh vào các cõi thấp, những kết quả/hậu quả không vui như những kết quả/hậu quả tương ứng với nguyên nhân của nó và những hậu quả thuộc về sự sở hữu và môi trường.Chương Chân lý nói:

Ồ, Đức Vua, ông không nên sát sinh,

Mọi chúng sinh đều yêu quý sinh mạng của họ,

Vì thế, bất kỳ ai ước muốn kéo dài đời mình,

Thậm chí đừng nghĩ tới việc sát sinh.

 

Như có nói, ta nên cương quyết không làm những hành vi hoàn toàn ác độc (đáng bị luật lệ khiển trách) chẳng hạn như sát sinh và không để cho ngay cả những tư tưởng về hành động như thế phát khởi trong tâm ta và cố gắng không lập lại điều đó; và vun trồng những hành vi hoàn toàn tốt lành bằng cách từ bỏ việc sát sinh và v.v.. Vị Thầy Tôn kính nói:

 

Chẳng có gì bảo đảm là con không bị sinh trong những cõi thấp sau khi con chết,

Chắc chắn là Tam Bảo có năng lực bảo vệ con khỏi nỗi sợ hãi này.

Vì thế, hãy quy y Tam bảo và

Đừng để những giới luật quy y của con suy tàn.

Hơn nữa, điều đó phụ thuộc vào việc thực hành đúng đắn vun trồng những gì nên theo và nên bỏ,

Bằng cách suy niệm về nguyên nhân và hậu quả trắng và đen.

Nhờ tuân theo những giới hạnh của việc từ bỏ mười ác hạnh, bạn có được một tái sinh cao quý. Tuy nhiên, để thành tựu con đường dẫn tới sự toàn trí, bạn nên đạt được một tái sinh có tám phẩm tính của nghiệp chín mùi[5] chẳng hạn như có dòng dõi gia đình ưu tú và diện mạo tuấn tú. Để đạt được tái sinh này, bạn nên nuôi dưỡng chánh niệm và vun trồng những nguyên nhân như không làm tổn hại chúng sinh, cúng dường đèn bơ, quần áo mới, và v.v.., tôn kính những người khác nhờ khắc phục tánh kiêu ngạo của bạn.Tuy nhiên, nếu vì quá nhiều mê lầm và v.v.., bạn bị ô nhiễm/vấy bẩn bởi những điều thất đức và đạo đức sa sút, bạn không nên biểu lộ thái độ dửng dưng đối với chúng, thay vào đó, bạn nên phục hồi những sa sút phù hợp với hoàn cảnh và tịnh hóa những điều thất đức bằng phương tiện của bốn năng lực đối kháng.[6] Và hãy nỗ lực liên tục để không bị ô nhiễm bởi những điều thất đức và sa sút về thân, ngữ, và tâm của bạn. Vị Thầy Tôn kính nói:

Trừ phi bạn có được một tái sinh hội đủ điều kiện,

Sẽ chẳng có chút hy vọng gì để thành tựu con đường tuyệt hảo,

Vì thế, đừng chểnh mảng, hãy vun trồng những nguyên nhân.

Đặc biệt là hãy coi trọng việc tịnh hóa

Những nghiệp chướng của ba cửa bị hành hạ bởi những điều thất đức và tràn đầy ô uế

Bằng cách thường xuyên vun trồng bốn năng lực đối kháng.

Nhờ thiền định theo cách này, bất kỳ khi nào bạn phát triển một sự quan tâm chân chính hay không giả tạo tới sự toàn thiện và những kỳ diệu của những đời sau bằng cách chuyển tâm bạn khỏi cuộc đời này, khi ấy bạn đã thành công trong việc tu tập con đường của người hạ căn.

2) Những Tu tập Thông thường của Con Đường của Người Trung Căn

Mặc dù nhờ từ bỏ mười ác hạnh và vun trồng mười thiện hạnh, ta có thể có được một tái sinh ở những cõi cao, nhưng ta sẽ không thoát khỏi những đau khổ của sinh tử. Vì thế, ta nên đạt Niết Bàn, sự giải thoát khỏi mọi đau khổ của sinh tử.

Nếu ta tự hỏi làm thế nào toàn bộ sinh tử thì đau khổ tự bản chất? Những đau khổ của ba cõi thấp đã được giải thích ở trên. Tuy nhiên, trong văn cảnh này, bạn nên suy niệm với một tiếp cận hơi khác một chút. Sau khi suy niệm những đau khổ riêng biệt của những cõi thấp, bạn nên suy niệm: “Ta không thể chịu đựng nổi những đau khổ lớn lao và kéo dài dằng dặc như thế và bằng mọi cách ta phải đạt được giải thoát khỏi mọi đau khổ.”

Ngoài những đau khổ của các cõi thấp, toàn bộ những đau khổ của sinh tử, dù cao hay thấp, cũng không vượt qua được bản chất đau khổ. Trong trường hợp loài người, khi ở trong thai tạng của người mẹ, người ấy phải chịu đựng sự tối tăm, những mùi hôi hám, đầy những chất dơ dáy và v.v… Trong tuần thứ ba mươi tám, bị sai sử bởi gió của nghiệp lực đời trước, thai nhi phải chịu đau đớn như thể bị lôi qua một cái lỗ bằng một cái mỏ cặp (ê-tô) hay bị ép như một hạt mè. Và khi sinh ra, ngay cả khi được giữ trong một miếng vải mềm, đứa bé phải chịu đau khổ như thể bị rơi vào giữa những cây gai. Những đau khổ của việc sinh ra là như thế.

Người ấy trở thành một thanh niên, và từ từ, lưng người ấy còng xuống như một cây cung, đầu trở nên bạc trắng như hoa tawa (spra-bai’I me-tog; thuật ngữ khoa học: aeschynomene grandiflora), và trán đầy những vết nhăn giống như một mảnh da được lạng mỏng. Ông ta ngồi như thể sợi dây buộc một vật nặng bị đứt và ông đứng như thể đang kéo rễ của một thân cây. Ông đi đứng loạng choạng và nói năng lắp bắp. Ông không thể nhìn và nghe rõ ràng bằng mắt và tai của mình. Thân thể ông mất đi vẻ đẹp rực rỡ và trông như một xác chết. Ông mau quên vì ký ức bị suy sụp. Ông không thể tiêu hóa đồ ăn và thức uống một cách thích đáng, và không thể ăn uống như ước muốn. Đời ông hầu như cạn kiệt. Những đau khổ của tuổi già là như thế và ông nhanh chóng tiến gần tới cái chết.

Khi sự hòa hợp của các yếu tố (các đại) của thân thể bị rối loạn, ông bị bệnh. Da ông khô và thịt nhão ra. Ông phải tránh mọi đồ ăn và thức uống vừa ý khi nghi ngờ chúng có thể ảnh hưởng tới bệnh tật. Thay vào đó, ông phải dùng thực phẩm, nước uống, thuốc men khó ưa và phải trải qua những cách điều trị khắc nghiệt như trích máu và đốt bằng ngải cứu. Nếu bệnh không thể chữa trị thì ông trải nghiệm vô số đau khổ. Những đau khổ của bệnh tật là như thế.

Nếu ông bị những căn bệnh chết người, ông biết mình đang chết. Ông ân hận về những ác hạnh đã làm trong quá khứ. Ông nhớ lại là ông đã lãng phí đời người của mình. Ông biết rằng ông phải rời khỏi thân thể mình và những bạn đồng hành như bạn bè, thân quyến và những người phục vụ. Miệng ông khô, lưỡi quắt lại, mũi xẹp xuống, đôi mắt mờ dần, và hơi thở hổn hển. Ông chịu đựng nỗi sợ những đau khổ dữ dội của các cõi thấp. Mặc dù ông không muốn chết nhưng những đau khổ của cái chết thì như thế.

Một vài người gặp những kẻ thù khó chịu như những tên trộm cướp và mất tất cả thực phẩm và của cải của họ. Thân thể họ bị đánh đập hay bị vũ khí, dùi cui v.v.. chọc thủng. Một số bị các vị vua và v.v.. hành hạ bằng những hình phạt khác nhau. Hoặc một số người đau khổ vì nghe những tin tức khủng khiếp. Những đau khổ của việc gặp những đối tượng không ưa là như thế.

Việc phải xa lìa mọi thực phẩm và của cải mà ta đã thâu thập bằng cách bất chấp mọi công việc khó nhọc và những đồn đại ác ý, và việc phải xa rời những đối tượng như những người thân thiết là những đau khổ của việc xa lìa những đối tượng yêu quý.

Đau khổ của việc không tìm được những đối tượng mong muốn có nghĩa là, ví dụ thế, trong trường hợp của các cư sĩ, mặc dù họ làm việc cực nhọc trong nông trại, do bị hạn hán, sương giá, mưa đá và v.v.., họ không có được một mùa bội thu như mong ước. Nếu là thương gia, họ có thể mất hàng hóa hay không có lợi và tiền lời và v.v.. Trong trường hợp của các tăng và ni, họ đau khổ vì không tuân giữ được giới hạnh của họ.

Chừng nào mà ta có được uẩn thích hợp này của sự tái sinh làm người, ta phải đối mặt với nỗi khổ của bệnh tật, tuổi già, sự chết và v.v.. Đời người này đem lại những đau khổ cho các đời sau của ta. Nó trở thành chiếc bình chứa đựng khổ khổ và khổ do sự biến hoại (hoại khổ). Tự bản chất, đó là đau khổ rộng khắp; vì thế đời người này hoàn toàn không hạnh phúc mà chỉ có bản tánh đau khổ.

Trong trường hợp của những bán-thần, họ chặt đứt và làm thân thể họ bị thương và đau khổ dữ dội. Trong trường hợp của các vị trời của dục giới,[7] khi năm dấu hiệu của cái chết[8] hiển lộ, họ đau khổ còn hơn chúng sinh trong cõi địa ngục. Khi họ thất vọng, bị trục xuất khỏi chỗ ở và v.v…, nỗi khổ mà họ kinh nghiệm thật không thể kể xiết. Những vị trời phàm tục của các cõi cao (thuộc sắc giới và vô sắc giới) không có khổ khổ, tuy nhiên, ba định đầu tiên của sắc giới có đau khổ vì sự biến hoại (hoại khổ), và định thứ tư và các cõi vô sắc thì có nỗi khổ rộng khắp không thể chịu đựng nổi giống như bị bệnh áp-xe (phol-mig) đau đớn dữ dội.

Sau khi suy nghĩ về những đau khổ nói chung và đặc biệt này của sinh tử, ta nên nghĩ: “Tôi phải đạt được trạng thái giải thoát khỏi những đau khổ này bằng mọi cách.”

Thật ra, không thể đạt được trạng thái giải thoát mà không có những nguyên nhân và điều kiện (duyên). Vì thế, ta nên tu hành một cách đúng đắn ba tu tập cao (tam học: Giới, định, tuệ), phương tiện để đạt được trạng thái giải thoát. Nói cách khác, ta nên tu hành trì giới, là nền tảng cần thiết của hai tu tập kia (định và tuệ). Về mặt này, trước tiên, ta nên đề phòng mọi sự sa sút đạo đức có thể có bằng cách sử dụng chánh niệm để phân tích một cách thận trọng mọi cánh cửa dẫn tới những sa sút đạo đức [9] chẳng hạn như sự vô minh. Nếu điều đó đã xảy ra, đừng phí thời giờ mà hãy lập tức sám hối những vi phạm và quyết định tự chế theo con đường ngay thẳng. Vì thế, hãy nỗ lực và thiền định về những cách đối trị những mê lầm và không bị ô nhiễm bởi các sa sút đạo đức. Bất kỳ hành động và hoạt động nào bạn làm, bạn không nên mâu thuẫn với những lời dạy của Đức Phật và không nên gây rắc rối/làm bẽ mặt bạn. Vị Thầy Tôn kính nói:

Nếu bạn không nỗ lực suy niệm về những lỗi lầm của chân lý về đau khổ (Khổ đế),

Một ước muốn giải thoát chân chính sẽ không phát khởi.

Nếu bạn không suy niệm về làm thế nào những nguồn mạch của đau khổ (Tập đế) dẫn tới sinh tử,

Bạn sẽ không thể hiểu được cách tiệt trừ cội gốc của sinh tử (Đạo đế),

Vì thế, hãy vun trồng sự từ bỏ (xả ly) đối với sinh tử,

Và nhận ra điều gì trói buộc bạn trong sinh tử.

Vì thế, bất kỳ khi nào bạn phát triển một tâm thức để giải thoát bản thân bạn khỏi toàn bộ sinh tử giống như một người bị mắc kẹt trong ngôi nhà cháy rực ước muốn thoát khỏi căn nhà đó, khi ấy bạn đã thành công trong những tu tập con đường của người trung căn.

3) Những Tu tập của Con Đường của Người Thượng Căn

Mặc dù ta đạt được giải thoát nhờ thực hành con đường tam học (giới, định và tuệ), nhưng như thế cũng chưa đủ. Dù bạn không lang thang trong sinh tử nữa nhờ đã đạt được sự giải thoát đơn thuần, tuy nhiên, bạn chỉ mới chiến thắng được phần nào những lỗi lầm của bạn và chỉ đạt được một phần đức hạnh. Vì thế, bạn không thành tựu lợi lạc toàn hảo của riêng bạn. Do bởi điều này, bạn chỉ có thể thành tựu những lợi ích không trọn vẹn cho chúng sinh. Do đó, bạn nên thành tựu trạng thái giác ngộ, sự hoàn thành trọn vẹn hai lợi ích toàn hảo.

Sau khi giác ngộ, bạn không nên nỗ lực cho những lợi lạc của riêng bạn, nhưng nỗ lực vì lợi ích của tất cả chúng sinh; bởi, giống như bạn bị rơi vào biển khổ, những người khác cũng thế, cũng bị hành hạ bởi những đau khổ, vì thế họ thật bất lực. Không có duy nhất một chúng sinh nào không từng là cha và mẹ bạn. Tất cả các chúng sinh đã từng là cha và mẹ bạn trong vô lượng kiếp và đã chăm sóc bạn với sự thiện tâm. Do đó, để giải thoát những chúng sinh tốt lành này khỏi những đau khổ và đặt họ trong trạng thái Niết bàn vô trụ tối thượng, bạn nên phát triển Bồ đề tâm.

Bạn nên phát triển Bồ đề tâm nhờ những giáo huấn bảy phần nhân quả. Những giáo huấn này như sau. Nhờ nhận ra rằng tất cả chúng sinh đã từng là mẹ của bạn, bạn tưởng nhớ tới thiện tâm của họ rồi tiến tới việc đền đáp thiện tâm của chúng sinh; điều đó phát triển sự tỉnh giác; từ đó tiến tới lòng từ và bi đem lại một thái độ chân thực hiếm có; và từ thái độ này dẫn tới Bồ đề tâm. Đó là nhóm bảy phần nhân quả từ đó đi tới sự toàn trí.

Trước khi thực hành những điều này, bạn nên điều phục tâm bạn một cách bình đẳng đối với tất cả chúng sinh bằng cách thiền định về sự xả bỏ. Bởi nếu bạn biểu lộ cảm xúc đầy định kiến về sự thân thiết, trung tính, và xa cách đối với chúng sinh, bạn không thể phát triển một nhận thức đúng đắn rằng tất cả chúng sinh đã từng là mẹ của bạn. Ngay cả một chút lòng từ và bi bạn đã phát triển cũng có phần nào thiên vị. Vì thế, trước tiên, bạn nên thiền định về tâm xả.

Phương pháp thiền định như sau. Trước tiên hãy quán tưởng chúng sinh khác nhau không làm lợi ích cho bạn mà cũng không làm hại bạn trong đời này. Từ góc độ của họ, mỗi người trong họ đều giống nhau ở điểm là mong muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Về phần bạn, hãy thiền định bằng cách suy nghĩ: “Họ hoàn toàn là những thành viên trong gia đình tôi bởi họ từng là cha và mẹ tôi, vì thế tôi không nên coi một vài người là thân thiết bằng cách làm lợi lạc cho họ mà cũng không coi một vài người là xa lạ bằng cách làm hại họ. Thay vào đó bạn nên điều phục tâm bạn một cách bình đẳng đối với những thành viên thân thiết của gia đình bạn trong đời này, và sau đó đối với những người đã làm hại bạn trong đời này. Như thế, hãy phát triển tâm xả bằng cách điều phục tâm bạn một cách bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Sau khi phát triển tâm xả, bạn nên suy niệm rằng bởi sinh tử không có lúc bắt đầu nên những tái sinh của bạn cũng không có lúc khởi đầu. Vì thế không có nơi nào mà bạn có thể nói là mình không từng sinh ra, và bạn cũng không thể nói chúng sinh nào không từng là mẹ bạn. Trong thực tế, mỗi một và mọi chúng sinh đã từng là mẹ của bạn vô số lần. Bởi sự biến đổi của việc sinh ra và chết đi, bạn không nhận ra họ, nếu không, bạn không thể tìm ra một người nào trong cõi chúng sinh mà không từng là cha mẹ của bạn. Mỗi lần họ là cha mẹ bạn, họ đã biểu lộ lòng tốt đối với bạn giống như cha mẹ bạn trong đời này. Vì thế, họ hết sức tử tế.

Bà mẹ trong đời này biểu lộ thiện tâm với bạn ra sao? Khi bạn ở trong thai tạng của bà mẹ hiện tại, bà chỉ nghĩ tới việc làm thế nào che chở và chăm sóc bạn, lo sợ điều gì đó có thể làm hại bạn. Sau khi bạn ra đời, bà đặt bạn ở một chỗ êm ái và bao bọc bạn trong những bộ quần áo mềm mại, ôm bạn trong tay, nhìn bạn bằng đôi mắt thương yêu, mỉm cười với bạn một cách âu yếm, cho bạn bú sữa mẹ bằng tình thương và ôm chặt bạn để truyền hơi ấm cho bạn. Bà dùng lưỡi mớm cho bạn ăn, dùng miệng lau nước mũi cho bạn, và dùng tay chùi sạch phân của bạn. Khi bạn bị bệnh nhẹ, bà còn đau khổ hơn cả việc đời bà bị lâm nguy. Bởi không màng tới những công việc nhọc nhằn, hạnh phúc và đau khổ của bà, bà cho bạn mọi sự bà thâu thập được. Tóm lại, bà che chở bạn bằng mọi cách có thể được. Theo cách này, bạn nên cảm nhận sâu sắc lòng tốt mà bà mẹ hiện tại của bạn biểu lộ với bạn.

Cũng với cách tiếp cận ấy, bạn nên quán tưởng những thành viên thân thiết trong gia đình và bạn hữu trong đời này, kế đó là những người không làm lợi mà cũng không làm hại bạn, rồi tới những người làm hại bạn trong đời này. Hãy nghĩ mỗi người trong số đó đã từng làm mẹ của bạn vô số lần ra sao và làm thế nào mỗi người trong họ đã từng làm mẹ của bạn trong vô số lần bạn tái sinh làm người. Mỗi lần họ làm mẹ của bạn, họ đã che chở cho bạn giống như người mẹ trong đời này của bạn đã làm. Bởi họ đã từng biểu lộ vô lượng thiện tâm với bạn nên họ hoàn toàn tử tế.

Tuy nhiên, những bà mẹ chúng sinh này, những người đã nuôi dưỡng bạn vô số lần, do bị quỷ ma của những cảm xúc phiền não quấy nhiễu nên tâm họ trở nên điên đảo mà không có chủ tâm. Đôi mắt quán chiếu của họ mù lòa và họ không có mắt để nhận ra những con đường dẫn tới tái sinh cao, sự giải thoát, và giác ngộ. Họ không có vị Thầy tâm linh, người dẫn dắt những kẻ mù lòa, để đưa họ tới cung thành giải thoát. Trong mỗi giây phút, họ vô tình và rối trí bởi những hành vi xấu ác, và loạng choạng hướng về những vực thẳm của sinh tử ghê sợ và tái sinh thấp kém. Hãy nghĩ: “Tôi là đứa con để những bà mẹ đau khổ đáng thương và bất lực này nương tựa, nếu không thì những bà mẹ này sẽ nương cậy vào ai? Nếu tôi không nhận trách nhiệm giải thoát những bà mẹ này thì ai sẽ nhận đây? Thật là xấu hổ và ngượng ngùng nếu tôi không quan tâm tới những bà mẹ tử tế này và chỉ làm việc cho sự giải thoát khỏi sinh tử của cá nhân tôi. Cho dù những bà mẹ này đạt được những kết quả hạnh phúc của sinh tử chẳng hạn như những trạng thái của Trời Phạm Thiên, Đế Thích v.v.. hạnh phúc của họ sẽ không kéo dài vĩnh viễn. Vì thế, giờ đây tôi không nên quan tâm tới bản thân, và bằng mọi phương tiện có thể có được, cầu mong tôi an lập vô lượng chúng sinh bao la như không gian trong hạnh phúc vô song của sự giải thoát bằng cách giải thoát họ khỏi những đau khổ của sinh tử.”

Và hãy suy nghĩ xa rộng hơn: “Kỳ diệu biết bao nếu tất cả những bà mẹ chúng sinh bất hạnh này được hạnh phúc. Cầu mong họ được hạnh phúc. Cầu mong họ được hạnh phúc bằng mọi phương tiện. Chính tôi sẽ làm cho họ được hạnh phúc. Kỳ diệu biết bao nếu tất cả chúng sinh, những người bị đau khổ dày vò, được giải thoát khỏi đau khổ. Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ. Cầu mong họ thoát khỏi đau khổ bằng mọi cách. Chính tôi sẽ làm cho họ thoát khỏi đau khổ.”

Tuy nhiên, bạn có năng lực để thành tựu những điều này không? Hãy suy niệm bằng cách nghĩ: “Chưa nói gì tới tất cả chúng sinh, tôi không có năng lực để an lập một người trong hạnh phúc vô song bằng cách giải thoát người ấy khỏi những đau khổ của sinh tử. Tuy nhiên, tôi đã quyết định làm như thế và nếu tôi bỏ qua quyết định này thì tôi sẽ đọa vào những cõi thấp. Bởi chỉ một mình Đức Phật mới có thể giải thoát tất cả chúng sinh khỏi những đau khổ và có thể an lập họ trong hạnh phúc vô song, vì thế, để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi mọi loại đau khổ và an lập họ trong hạnh phúc vô song, cầu mong tôi đạt được trạng thái Phật quả hoàn toàn viên mãn bằng mọi phương tiện.”

Chỉ khao khát Bồ đề tâm không thôi thì không đủ. Ta nên tu hành bốn tu tập sau đây: 1/. Nhớ lại những lợi ích của Bồ đề tâm, tu tập này giúp tăng trưởng năng lực của nhiệt tâm và khiến Bồ đề tâm không suy hoại trong đời này, 2/. Phát triển Bồ đề tâm sáu thời mỗi ngày, tu tập này giúp tăng trưởng Bồ đề tâm thực sự, 3/. Không từ bỏ chúng sinh là những người mà vì họ bạn đã phát triển Bồ đề tâm, và 4/. Tích lũy công đức.

1/ Tu tập Nhớ lại những Lợi ích của Bồ đề tâm

Giây phút bạn phát triển Bồ đề tâm, bạn trở thành đối tượng của lòng sùng mộ của toàn thể nhân loại và các vị trời, bạn chiếu sáng các vị Thanh Văn và Độc Giác từ quan điểm của dòng truyền thừa, bạn không bị quấy rầy bởi những bệnh dịch và những tinh linh xấu, bạn có thể thành tựu mọi hoạt động chẳng hạn như những hoạt động an bình, bạn sẽ không bị sinh vào những cõi thấp, trong trường hợp bạn bị sinh ra ở đó bạn sẽ lập tức thoát khỏi, và bạn có thể chiến thắng ngay cả những hành vi xấu ác dữ dội nhất. Có câu nói là nếu những lợi ích của Bồ đề tâm được cụ thể hóa thành hình tướng thì không gian không chứa nổi nó. Vì thế, ta nên suy niệm về việc đừng để Bồ đề tâm suy tàn mà hãy phát triển nó.

2/ Tu tập Phát triển Bồ đề tâm Sáu Thời Mỗi ngày

Nghiệp chín muồi của việc từ bỏ Bồ đề tâm ngay cả trong một thời gian ngắn thì nặng nề hơn nghiệp của việc vi phạm những sa sút gốc (trọng giới). Vì thế, cho tới khi thành Phật, bạn không nên từ bỏ Bồ đề tâm. Bạn nên phát triển Bồ đề tâm bằng cách tụng bài kệ sau đây ba lần mỗi thời, ba thời vào ban ngày và ba thời vào ban đêm:

Trước Phật, Pháp và Tăng,

Con quy y cho tới khi con giác ngộ,

Nhờ tích tập thực hành bố thí và v.v..

Cầu mong con thành tựu Phật quả vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

3/ Tu tập Không Từ bỏ Chúng sinh

Vì bạn đã phát triển Bồ đề tâm vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, bạn nên suy niệm rằng cho dù họ hành xử ra sao, về phần bạn, bạn không nên từ bỏ Bồ đề tâm.

4/ Tu tập Tích lũy Công đức

Một khi Bồ đề tâm đã phát triển trong tâm bạn thì không nên để nó suy tàn mà hãy phát triển nó bằng cách tích lũy công đức chẳng hạn như cúng dường Tam Bảo. Để không làm suy hoại Bồ đề tâm trong những đời sau của bạn, bạn nên từ bỏ bốn pháp đen và vun trồng bốn pháp trắng. Bốn pháp đen là:

Nói dối hay lừa dối Tu viện trưởng hay vị Thầy tâm linh của bạn hay bất kỳ người nào khác là đối tượng của sự tôn kính là pháp đen thứ nhất. Vì thế, bạn không nên làm điều đó mà hãy vun trồng cách đối trị nó, không nói dối bất kỳ chúng sinh nào ngay cả khi nói đùa hay để cứu một sinh mạng.

Pháp đen thứ hai là làm cho người nào đó hối tiếc việc thành tựu những đức hạnh. Bạn đừng bao giờ làm điều đó mà như một cách đối trị cho hành động đó, bạn nên đưa người đó tới sự thuần thục của Đại thừa thay vì Tiểu thừa, nếu người ấy là một bình chứa (Pháp khí) thích hợp.

Pháp đen thứ ba là nói những điều khó chịu một cách căm thù với người đã phát triển tâm Đại thừa. Bạn không nên làm điều đó mà hãy coi người ấy như một vị Phật, và nếu có thể thì tùy theo hoàn cảnh, hãy tán thán những phẩm tính của người ấy và cũng tu hành sự tỉnh giác về thị kiến thanh tịnh đối với tất cả chúng sinh.

Pháp đen thứ tư là biểu lộ những thái độ giả dối đối với chúng sinh. Bạn không nên làm điều đó mà nên biểu lộ thái độ chân thành đối với chúng sinh.

Đạo sư Tôn quý nói:

Bồ đề tâm là thân của con đường của cỗ xe (thừa) tuyệt hảo,

Là nền tảng và nơi nương tựa của những người dấn mình vào những hành vi vĩ đại,

Bồ đề tâm như một thần dược đối với hai tích tập (công đức và trí tuệ),

Là kho công đức chứa vô số đức hạnh,

Hiểu rõ điều này, Con cái dũng cảm của các Đấng Chiến Thắng,

Hãy gìn giữ tâm quý báu tuyệt hảo này như hứa nguyện chính trong trái tim.

 

Chỉ tu hành tâm khát khao giác ngộ (Bồ đề tâm nguyện) có đủ không? Không, điều đó không đủ. Thêm vào đó, bạn nên lập những lời nguyện của tâm thực hành giác ngộ (Bồ đề tâm hạnh) và tu tập những công hạnh vĩ đại của một Bồ Tát. Để làm thuần thục dòng tâm thức của bạn, bạn nên tu tập sáu ba la mật (sáu toàn thiện) và để làm thuần thục dòng tâm thức của chúng sinh, bạn nên tu tập bốn cách để tập họp đệ tử.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Ba (1543-1588)

Nguyên tác: “The Essence of Refined Gold: The Guidelines of the Stages of the Path of Enlightenment về “Bài Ca Tâm Linh Lamrim” của Đức Tsongkhapa

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Tinh chất của vàng tinh luyện: Nguyên lý chỉ đạo các giai đoạn của con đường Giác Ngộ – Chùa Bửu Châu – Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (chuabuuchau.com.vn)