Tantra Mẹ nói rằng nếu người ta không tỉnh thức trong cái nhìn thấy, không chắc chắn người ta sẽ tỉnh thức trong hành xử. Nếu người ta không tỉnh thức trong hành xử, không chắc chắn người ta tỉnh thức trong giấc mộng. Và nếu người ta không tỉnh thức trong giấc mộng, bấy giờ người ta không chắc chắn tỉnh thức trong trung ấm sau khi chết.
Khi chúng ta không tỉnh giác về hoàn cảnh thực chúng ta đang hiện hữu, thật khó đáp ứng một cách khéo léo thiện xảo với cái chúng ta gặp gỡ trong đời sống cả trong lẫn ngoài. Thay vào đó, chúng ta phản ứng theo thói quen nghiệp lực của bám lấy và ghét bỏ, bị dẫn dắt theo cách này bởi những bất hạnh và hy vọng hão huyền. Hành động căn cứ trên những mê lầm này nghĩa là không tỉnh giác trong hành xử. Kết quả của hành động như vậy là sự củng cố thêm tham, sân, si và tạo thêm những dấu vết nghiệp xấu.
Những giấc mộng khởi từ cùng những dấu vết nghiệp ấy cai quản những kinh nghiệm khi thức của chúng ta. Nếu chúng ta cũng phóng dật để thâm nhập vào những tưởng tượng và vọng tưởng của tâm thức vọng động lúc ban ngày, chúng ta sẽ hầu như bị trói buộc bởi cùng những giới hạn trong khi mộng. Đây là “không tỉnh thức trong giấc mộng”. Những hiện tượng mộng chúng ta gặp sẽ gọi dậy trong chúng ta cùng những phiền não và phản ứng nhị nguyên mà chúng ta đã bị chìm đắm vào khi thức, và khó khăn để khai triển sự sáng sủa hay đi vào những thực hành xa hơn.
Chúng ta đi vào bardo, trung ấm sau cái chết, đúng như chúng ta đi vào giấc mộng sau khi rơi vào giấc ngủ. Nếu kinh nghiệmgiấc mộng của chúng ta thiếu sự sáng tỏ và thuộc những trạng thái phiền não mê mờ và phản ứng thói quen, chúng ta sẽ kinh nghiệm tiến trình cái chết theo cùng cách đó. Chúng ta sẽ bị dẫn dắt vào sự trói buộc thuộc nghiệp lực hơn nữa bằng cách phản ứng một cách nhị nguyên với những cái nhìn thấy trong trạng thái trung ấm, và sự tái sanh tương lai của chúng ta sẽ được xác định bởi những khuynh hướng nghiệp nào chúng ta đã từng trau dồi trong cuộc sống. Đây là “không tỉnh giác trong trung ấm.”
Ngược lại, khi chúng ta tiếp tục đem sự tỉnh giác vào lúc trung gian, khả năng này sẽ sớm được tìm thấy trong giấc mộng. Khi chúng ta trau dồi sự hiện diện trong giấc mộng, chúng ta tự chuẩn bị cho cái chết. Sự thực hành giấc mộng có tương quan với sự tiến bộ này.
Để tiến bộ chúng ta phải khai triển một sự an định nào đó trong tâm thức để chúng ta có thể giữ gìn tỉnh giác lớn lơn trong kinh nghiệm, trong “cái nhìn thấy” và khai triển khả năng đáp ứng khéo léo thiện xảo. Bởi thế sự thực hành đầu tiên là an định(samatha), trong đó tâm thức được huấn luyện cho tĩnh lặng, tập chú và lanh lợi cảnh giác.
Khi chúng ta đem sự tỉnh giác lớn hơn vào kinh nghiệm, chúng ta có thể chiến thắng những thói quen phản ứng đặt nền trên những vọng tưởng của tâm thức quy ước. Bốn sự thực hành căn bản làm cho tính linh hoạt mềm dẻo này tiến xa hơn bằng cách tu tập tâm thức sử dụng bất kỳ đối tượng nào trong kinh nghiệm khi thức như là một nguyên nhân để tăng thêm sáng tỏvà hiện diện. Vì chúng ta nới lỏng sự trói buộc của phản ứng theo nghiệp, chúng ta có thể chọn lựa hành động một cách tích cực, tốt đẹp. Điều này là sự đem tỉnh giác vào trong hành xử.
Sự tỉnh giác chúng ta đã làm vững chắc trong kinh nghiệm khi thức và làm cho biểu lộ trong những hành xử của chúng ta sẽ tự nhiên bắt đầu khởi sanh trong giấc mộng. Những thực hành ban đầu dùng sự hiểu biết về khí, những luân xa và tâm thức để hỗ trợ cho sự làm vững mạnh sự tỉnh giác trong giấc mộng. Chúng được làm trước khi rơi vào giấc mộng và trong ba thời thức trải qua đêm. Một khi sự sáng tỏ đã được khai triển, có những thực hành nữa trong suốt chính giấc mộng để khai triển tính linh hoạt của tâm thức, để bẻ gãy những giới hạn và hiểu sai chúng cột trói chúng ta vào sanh tử.
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo – Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000